Kịch thơ: NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

-Nhân vật: + Anh Thành + Anh Lê + Anh Mai

-Nhạc cụ:đàn sáo đệm
-Giới thiệu:( Đọc diễn cảm hoặc ngâm)
Từ Làng Sen Người vào Phan Thiết
Mang trong tim tình yêu nước Việt
Thấy dân mình nô lệ lầm than 
Làm thế nào để cứu giang san?

Thương nhân dân lạc hậu nghèo nàn
Rời Phan Thiết Người đến Sài Gòn
Ở trọ trong ngôi nhà Xóm Chiếu
Đèn dầu soi tỏ tấm lòng son

Trong lúc Người đang ngồi ghi chép
Anh Lê đến gõ cửa đi vào
Lê đâu biết,Người dùng bút thép:
Xót thương cho đất nước đồng bào
-Cảnh trí:Một ngôi nhà ở Xóm Chiếu,Sài Gòn.Dưới ngọn đèn dầu lù mù,anh Thành đang ngồi ghi chép.Anh Lê vào

Lê: “Anh Thành! Sáng mai anh nhận việc
Mọi thứ tôi đã thu xếp xong
Cơm nuôi và mỗi tháng một đồng
Mỗi năm thêm hai bộ quần áo
Mỗi tháng thêm năm hào được không?”
Thành: “Lê ơi! có lẻ thôi, anh ạ
Nếu chỉ cần miếng cơm manh áo
Tôi ở Phan Thiết cũng đủ rồi
Đâu cần đến những chốn xa xôi”
Lê: “Anh vào Sài Gòn để làm gì?
Cơ hội đến có lúc có thì
Dịp may qua rồi khó tìm lại
Anh biết chữ Tàu giỏi tiếng Tây”
Thành: “Anh học trường Sa-xơ-lu Lô- ba
Phải chăng là người Phú Lãng Sa?
Có bao giờ nghĩ về xứ sở?
Để làm gì cho đất nước ta?”
Lê: “Anh lại hỏi những điều lạ thay!
Cùng sinh ra trên đất Việt này
Anh người nước nào tôi nước ấy
Xin anh đừng bỏ lỡ dịp may!”
Thành: “Đúng rồi ! Chúng ta là đồng bào
Cùng máu đỏ da vàng với nhau
Đã có khi nào anh nghĩ đến
Nhân dân mình đang còn khổ đau?”
Lê: “Sao lại không? Mới ngày hôm qua
Mấy ông đốc học vừa nhắc lại
Nghị định giám quốc Phú Lãng Sa
Cho người Việt vào làng Tây mà…”
Thành: “Vào làng Tây để có tên Tây
Ăn ở,làm việc lãnh lương Tây
Anh đã làm đơn xong chưa nhỉ?
Để hưởng vinh hoa phú quí này!”
Lê: “Không bao giờ!Không bao giờ tôi quên
Dòng máu chảy trong cánh tay này
Chưa hiểu vì sao anh đổi ý?
Không nhận việc làm ở nơi đây?
Thành: “Anh Lê ơi!Đèn dầu ta lù mù,
So đèn hoa kỳ vẫn còn lu,
Đèn tọa đăng tỏ hơn đôi chút,
Nay đèn điện sáng tựa trăng thu”.
Lê: “Anh kể chuyện đó để làm gì?
Đời người may mắn được mấy khi?
Tìm một việc làm cho yên phận,
Cho qua thời qua buổi loạn ly”.
Thành: “Vì anh với tôi là người Việt
Là công dân của đất nước này
Thương đồng bào quê hương tha thiết
Nước đắm chìm chẳng lẽ khoanh tay”.
Lê: “Phải,chúng ta là con dân nước Việt
Đã lỗi thời súng kiếp,thần công
Lẽ thiệt hơn ai ai cũng biết
Thua súng Tây:đại bác,đạn đồng”.
Thành: “Vì thế tôi muốn sang nước họ
Xem cách làm ăn,học trí khôn
Luyện trí tài,hùng tâm dũng khí…
Cứu dân mình giành lại nước non”.
Lê: “Anh ơi!Nước Tây ở xa lắm đấy!
Tàu biển chạy hàng tháng mới tới nơi
Một suất vé hàng ngàn đồng khó thấy!
Anh lấy tiền đâu ra để mà đi?”
Thành:(Xoè hai bàn tay ra rồi nói)
“Tiền đây chứ đâu?Ta hãy vững tin
Chúng ta cần phải mở rộng tầm nhìn
Tôi đang nhờ anh Mai xin cho một việc…
Ở dưới tàu La-tút-sơ Tơ-rê-vin”.
Lê: “Vất vả lắm,lại còn say sóng nữa…
Đến nơi chân trời góc bể xa xôi
Biết nhờ vào đâu làm nơi nương tựa
Một mình đau ốm,lại khổ thân thôi!”
(Bỗng có tiếng gõ cửa anh Mai vào
Ba người gặp nhau cùng thân mật chào)
Mai: “Anh Thành ạ,tôi báo tin cho anh thu xếp
Tôi đã xin được cho anh chân phụ bếp
Anh cùng tôi sẽ làm việc ở dưới tàu”.
Thành: “Cảm ơn anh.Bao giờ mình trình diện?
Mặc dù tôi chưa hề quen đi biển
Nhưng lòng chẳng ngại sóng cả bão to
Có anh cùng đi tôi bớt nỗi lo”.
Mai: “Anh trình diện càng sớm càng hay
Anh hãy nghĩ kỹ trong đêm nay
Sóng Biển Đỏ rất là dữ dội
Gian nan,có thể chết bỏ thây!…”
Thành: “Tôi nghĩ kỹ rồi,hỡi bạn ơi!
Làm thân nô lệ khổ đời đời!
Cùng đứng lên xóa kiếp người nô lệ
Để thành công dân yêu nước thương nòi.
Mình đi ngay có được không,anh?”.
Mai: “Cũng được.Mình chuẩn bị đi ngay.”
(đọc diễn cảm hoặc ngâm)
Hành trang,sách vở khoác lên vai
Vượt qua sóng gió,vạn dặm dài
Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước
Rời Sài Gòn,hùng tráng dáng Rồng bay.
Thi Nang
(Phỏng theo đoạn kịch nói trích trong vở:”Người công dân số một” của Hà Văn Cầu-Vũ Đình Phòng,tôi biên soạn thành kịch thơ).